Vì sao Điện ảnh được gọi là môn nghệ thuật thứ 7?

Vì sao Điện ảnh được gọi là môn nghệ thuật thứ 7?

Người yêu thích điện ảnh ở Việt Nam lâu nay ít để ý đến nguồn gốc của tên gọi “Nghệ thuật thứ 7”, dù thỉnh thoảng vẫn bắt gặp trên báo chí. Mươi năm gần đây, một số tài liệu giải thích rằng: “Điện ảnh là nghệ thuật thứ 7 vì nó ra đời sau 6 nghệ thuật có trước.” Nhưng sáu nghệ thuật ấy gồm những gì, thì mỗi học giả lại liệt kê khác nhau.

Trong công trình “Văn học dân gian và nghệ thuật tạo hình điện ảnh”, TS. Nguyễn Mạnh Lân và TS. Trần Duy Hinh đưa ra 6 loại hình: Văn học, Múa, Âm nhạc, Hội họa, Kiến trúc, Sân khấu. Trong khi đó, Cao Thụy trong “Điện ảnh – Nghệ thuật thứ bảy” lại xếp: Văn học, Kiến trúc, Nghệ thuật tạo hình (điêu khắc, hội họa, đồ họa, trang trí), Sân khấu, Múa, Âm nhạc.

Ảnh Minh Họa

Thực tế, việc nghiên cứu và phân loại nghệ thuật đã có từ thời cổ đại. Triết gia Đức Max Dessoir (1867–1947) phân chia thành hai nhóm:

  • Nghệ thuật tĩnh: Kiến trúc, Điêu khắc, Hội họa.

  • Nghệ thuật động: Âm nhạc, Thơ, Múa.

Sau này, Hegel (1770–1831) cũng dựa trên tiêu chí biểu hiện và kích cỡ vật thể để phân loại.

Ricciotto Canudo (1879–1923)

Ricciotto Canudo (1879–1923)

Đầu thế kỷ XX, Ricciotto Canudo (1879–1923) – nhà văn, nhà thơ, nhà biên kịch người Ý tại Pháp – đã nhìn thấy tiềm năng của điện ảnh. Năm 1911, ông gọi điện ảnh là “nghệ thuật thứ sáu”, nhưng đến năm 1923, trong “Tuyên ngôn của bảy nghệ thuật”, ông chính thức đưa điện ảnh vào vị trí nghệ thuật thứ bảy. Canudo cho rằng có hai nghệ thuật gốc: Kiến trúc (nghệ thuật không gian, tĩnh, tạo hình) và Âm nhạc (nghệ thuật thời gian, động, tiết tấu). Mỗi loại có hai nghệ thuật phù trợ: Kiến trúc gắn với Điêu khắc, Hội họa; Âm nhạc gắn với Thơ, Múa. Điện ảnh xuất hiện như một tổng hợp – nơi giao thoa của cả hai nhóm – vừa chiếm lĩnh không gian, vừa nắm bắt nhịp điệu của thời gian.

Triết gia Étienne Souriau (1892–1979) sau đó phát triển hệ thống phân loại này theo hướng toàn diện hơn, dựa trên đặc tính cảm quan. Trong các công trình “Les éléments d’esthétique comparée”“La Correspondance des arts” (1969), ông xếp 7 nghệ thuật theo thứ tự:

  1. Kiến trúc

  2. Điêu khắc

  3. Mỹ thuật thị giác (hội họa, đồ họa, minh họa…)

  4. Âm nhạc

  5. Văn học (thơ, truyện…)

  6. Nghệ thuật biểu diễn (hài kịch, múa, sân khấu…)

  7. Điện ảnh

nghe-thuat-thu-7-la-gi

Ảnh Minh Họa

Souriau cho rằng mỗi loại hình đều có hai cấp độ: tái hiện và trừu tượng – chẳng hạn: hội họa hiện thực và hội họa thuần túy, kịch câm và múa. Ông xác định các yếu tố cảm quan cơ bản của nghệ thuật là: ánh sáng, ngôn từ, chuyển động, giai điệu, màu sắc, đường nét, hình khối.

Điện ảnh chính là loại hình dung hợp tất cả: có kịch bản từ văn học, ánh sáng và bố cục từ hội họa, nhịp điệu từ âm nhạc, hình khối từ kiến trúc, diễn xuất từ sân khấu, chuyển động từ múa, và nhịp tim của thời gian – yếu tố làm nên ngôn ngữ quay phim nghệ thuật.

Team Quay Film

Ảnh Minh Họa

Ngày nay, khi ta xem một bộ phim, dễ nhận thấy điện ảnh không chỉ là “đứa con út” của nghệ thuật, mà còn là “tác phẩm tổng hợp” – nơi mọi loại hình cùng giao hòa. Các thử nghiệm hiện đại như multimedia, video art, nghệ thuật số, game điện tử tiếp tục mở rộng biên giới, đôi khi được gọi là “nghệ thuật thứ tám, thứ chín”.

Nhưng giữa những làn sóng ấy, điện ảnh vẫn giữ cho mình vị trí đặc biệt. Nó vừa kế thừa tinh hoa nghệ thuật hàng nghìn năm, vừa tạo dựng một ngôn ngữ hình ảnh mới – ngôn ngữ của ánh sáng, chuyển động và thời gian. Và chính vì thế, điện ảnh được vinh danh là môn nghệ thuật thứ bảy – một “nàng thơ” của thời hiện đại, nơi mà máy quay không chỉ ghi lại hiện thực, mà còn chạm đến chiều sâu tâm hồn con người.

Viết bình luận

hotline hotline hotline hotline